Trang gốc

Trang web BuddhaSasana

VU Times font

 

PHẬT GIÁO NGUYÊN THỦY
THERAVĀDA

NỀN TẢNG PHẬT GIÁO
(MŪLABUDDHASĀSANA)

QUYỂN II

QUY Y TAM BẢO
(TISARAṆA)

Tỳ khưu Hộ Pháp
(Dhammarakkhita Bhikkhu)

Lưu ý: Ðọc với phông chữ VU Times (Viet-Pali Unicode)


 

MỤC LỤC

  KỆ LỄ BÁI TAM BẢO
LỜI NÓI ĐẦU
[3.1]

CHƯƠNG III - ÂN ĐỨC TAM BẢO

ÂN ĐỨC PHẬT

Ý nghĩa 9 Ân đức Phật

Giảng giải về 9 Ân đức Phật

Ân đức Phật thứ nhất: Arahaṃ
Arahaṃ có 5 ý nghĩa
Xa lìa mọi phiền não
Diệt đoạn tuyệt mọi phiền não là kẻ thù
Phá hủy vòng luân hồi trong ba giới bốn loài
Không bao giờ hành điều ác ở nơi kín đáo
Bậc xứng đáng thọ nhận sự lễ bái cúng dường
Niệm Ân đức Arahaṃ
Ân đức Phật thứ nhì: Sammāsambuddho
Chân lý Tứ Thánh Đế
Ñeyyadhamma
Niệm Ân đức Sammāsambuddho
Ân đức Phật thứ ba: Vijjācaraṇasampanno
Tam Minh
Bát Minh
15 Đức Hạnh cao thượng
Niệm Ân đức Vijjācaraṇasampanno
Ân đức Phật thứ tư: Sugato
Sugato có 4 ý nghĩa
Ngự theo Thánh Đạo
Ngự đến Niết Bàn an lạc tuyệt đối
Ngự đến mục đích cao thượng bất thoái chí
Thuyết pháp chân lý đem lại lợi ích cho chúng sinh
Niệm Ân đức Sugato
Ân đức Phật thứ năm: Lokavidū
Thế giới có 3 loại
Chúng sinh thế giới
Cõi thế giới
Pháp hành thế giới
Niệm Ân đức Lokavidū
Ân đức Phật thứ sáu: Anuttaro purisadammasārathi
Giáo hóa người ác trở thành bậc Thánh Nhân
Giáo hóa Dạ xoa trở thành bậc Thánh Nhân
Giáo hóa phạm thiên tà kiến trở thành chánh kiến
Giáo hóa loài súc sinh
Anuttaro: Đức Vô Thượng
Purisadammasārathi: Đức Giáo Hóa chúng sinh
Niệm Ân đức Anuttaro purisadammasārathi
Ân đức Phật thứ bảy: Satthādevamanussānaṃ
Sự lợi ích an lạc kiếp hiện tại
Sự lợi ích an lạc những kiếp vị lai
Sự lợi ích an lạc cao thượng Niết Bàn
Niệm Ân đức Satthādevamanussānaṃ
Ân đức Phật thứ tám: Buddho
Ân đức Sammāsambuddho và Ân đức Buddho khác nhau như thế nào?
Niệm Ân đức Buddho
Ân đức Phật thứ chín: Bhagavā
Ân đức Bhagavā có 6 đức chính
Issariya: Tự chủ
Dhamma: Chánh pháp
Yassa: Tiếng tốt lành
Siri: Hạnh phúc
Kāma: Nguyện ước thành tựu
Payatta: Tinh tấn không ngừng
5 phận sự của Đức Phật
Niệm Ân đức Bhagavā

Đề mục niệm Ân đức Phật

Phương pháp niệm Ân đức Phật
Cách thứ nhất
Cách thứ nhì
Cách thứ ba
Pháp hành thiền tuệ
Quả báu đặc biệt niệm Ân đức Phật
Nhận xét về đề mục niệm Ân đức Phật
Ban đầu có đức tin sau càng vững chắc
Ban đầu không có đức tin sau mới phát sinh
Phương pháp niệm Ân đức Phật

[3.2] ÂN ĐỨC PHÁP

Ý nghĩa 6 Ân đức Pháp

Giảng giải về ý nghĩa 6 Ân đức Pháp

Ân đức Pháp thứ nhất: Svākkhāto
10 chánh pháp
Pháp học chánh pháp hoàn hảo phần đầu, phần giữa, phần cuối
9 pháp Siêu tam giới hoàn hảo phần đầu, phần giữa, phần cuối
Ân đức Pháp thứ nhì: Sandiṭṭhiko
Sandiṭṭhika có 3 ý nghĩa
Chứng đắc bằng trí tuệ của mình
Diệt đoạn tuyệt phiền não
Tự chứng kiến
Ân đức Pháp thứ ba: Akāliko
Akāliko có 2 ý nghĩa
Thánh Đạo diệt Thánh Quả sinh không có thời gian ngăn cách
4 Thánh Đạo cho 4 Thánh Quả không có thời gian chờ đợi
Ân đức Pháp thứ tư: Ehipassiko
Ehipassika có 2 ý nghĩa
9 pháp Siêu tam giới có thực tánh Chân nghĩa pháp nên thực chứng
9 pháp Siêu tam giới có thực tánh hoàn toàn trong sạch thanh tịnh
Ân đức Pháp thứ năm: Opaneyyiko
Ân đức Pháp thứ sáu: Paccattaṃ veditabbo viññūhi
Ba bậc thiện trí Thánh Nhân
Bậc thiện trí có trí tuệ bậc thượng
Bậc thiện trí có trí tuệ bậc trung
Bậc thiện trí có trí tuệ bậc thường
Bốn bậc Thánh Nhân
Khả năng đặc biệt của bậc Thánh Nhân
Bậc Thánh Nhân nhập Thánh Quả
Ân đức Pháp được thực chứng
Niết Bàn là pháp chứng ngộ
6 Ân đức Pháp

Đề mục niệm Ân đức Pháp

Phương pháp niệm Ân đức Pháp
Cách thứ nhất
Cách thứ nhì
Quả báu trong kiếp hiện tại
Quả báu trong kiếp vị lai
Pháp hành thiền tuệ
Quả báu đặc biệt niệm Ân đức Pháp

ÂN ĐỨC TĂNG

Ý nghĩa 9 Ân đức Tăng

Giảng giải về 9 Ân đức Tăng

Ân đức Tăng thứ nhất: Suppaṭipanno
Hành giới
Hành định
Hành tuệ
Ân đức Tăng thứ nhì: Ujuppaṭipanno
Ân đức Tăng thứ ba: Ñāyappaṭipanno
Ân đức Tăng thứ tư: Sāmīcippaṭipanno
Chư Thánh Thanh Văn có 4 đôi
Chư Thánh Thanh Văn có 8 bậc Thánh
Tích Ngài Đại đức Ayyamitta
Ân đức Tăng thứ năm: Āhuneyyo
Tích Đức vua trời Sakka
Ân đức Tăng thứ sáu: Pāhuneyyo
Khách quý có hai hạng
Kinh Kusalasutta
Ân đức Tăng thứ bảy: Dakkhiṇeyyo
Tích bố thí cơm cháy
Tích Sāriputtattheramātupeta
Tích Vihāravimāna
Ân đức Tăng thứ tám: Añjalikaraṇīyo
Tích vua trời Sakka đảnh lễ chư Tăng
Ân đức Tăng thứ chín: Anuttaraṃ puññakkhettaṃ
Tích thiên nữ Lajādevadhitā
Tích ông Puṇṇa
Ông Puṇṇa trở thành đại phú hộ

Đề mục niệm Ân đức Tăng

Phương pháp niệm Ân đức Tăng
Cách thứ nhất
Cách thứ nhì
Pháp hành thiền tuệ
Quả báu đặc biệt niệm Ân đức Tăng

Đề mục niệm Ân đức Tam Bảo

Oai lực niệm Ân đức Tam Bảo
Quả báu đặc biệt của niệm Ân đức Tam Bảo
Tích Ngài Đại đức Sugandhatthera
Quả báu tán dương Ân đức Tam Bảo
Đức tin trong sạch nơi ngôi cao cả
Đức tin trong sạch nơi Tam Bảo và quả báu

[4.1]

CHƯƠNG IV - QUY Y TAM BẢO

Người quy y Nhị Bảo đầu tiên
Tuyên dương cận sự nam quy y đầu tiên
Người quy y Tam Bảo đầu tiên
Người nữ quy y Tam Bảo đầu tiên
Tuyên dương cận sự nữ quy y Tam Bảo đầu tiên
Nơi nương nhờ
Nương nhờ nơi không chân chính
Nương nhờ nơi chân chính
Nguyên nhân quy y Tam Bảo

Quy y Tam Bảo có 2 phép chính

Quy y Tam Bảo theo pháp Siêu tam giới

Thứ bậc của phép quy y Tam Bảo theo pháp Siêu tam giới
Quả báu của phép quy y Tam Bảo theo pháp Siêu tam giới
Nhập Thánh Quả để hưởng an lạc Niết Bàn
Quả báu của Thánh Quả trong kiếp vị lai
Chư Thánh Nhân thọ nhận phép quy y Tam Bảo
Chứng đắc Thánh Arahán tịch diệt Niết Bàn
Chứng đắc Thánh Arahán rồi xin xuất gia
Ba bậc Thánh Nhân tại gia

Quy y Tam Bảo theo pháp tam giới

Điều kiện thành tựu phép quy y Tam Bảo theo pháp tam giới
Thứ bậc của phép quy y Tam Bảo theo tam giới
4 hạng người quy y Tam Bảo theo pháp tam giới
Quy y Tam Bảo không thành tựu - thành tựu
Đứt - không đứt phép quy y Tam Bảo
Quy y Tam Bảo vững chắc - không vững chắc
Phép quy y Tam Bảo vững chắc
Phép quy y Tam Bảo không vững chắc
Nhân làm ô nhiễm phép quy y Tam Bảo
Nhân làm trong sạch phép quy y Tam Bảo
Quy y Tam Bảo với đức tin trong sạch
Quả báu của phép quy y Tam Bảo và ngũ giới
Phép quy y Tam Bảo thời xưa và thời nay
Phép quy y Tam Bảo phổ thông
Hướng dẫn phép quy y Tam Bảo phổ thông
Cách thức để thành tựu phép quy y Tam Bảo
Thai nhi thọ phép quy y Tam Bảo
Trẻ sơ sinh thọ phép quy y Tam Bảo
Lợi ích của phép quy y Tam Bảo
Sự lợi ích chung của phép quy y Tam Bảo
Sự lợi ích riêng của mỗi phép quy y
Sự lợi ích của phép quy y Phật Bảo
Sự lợi ích của phép quy y Pháp Bảo
Sự lợi ích của phép quy y Tăng Bảo
Tiêu chuẩn trở thành cận sự nam - cận sự nữ
Xin thọ phép quy y Tam Bảo
Xin quy y nơi Đức Phật Bảo như thế nào?
Xin quy y nơi Đức Pháp Bảo như thế nào?
Xin quy y nơi Đức Tăng Bảo như thế nào?
Thọ phép quy y Tam Bảo thành thói quen tốt
Quả báu của phép quy y Tam Bảo
Quả báu kiếp hiện tại
Quả báu kiếp vị lai
Tích quả báu của phép quy y Tam Bảo
Năng lực phước thiện phép quy y Tam Bảo
10 quả báu của phép quy y Tam Bảo
Tầm quan trọng của phép quy y Tam Bảo
Phép quy y Tam Bảo trở thành vị Sadi - Tỳ khưu
Nghi thức thọ Sadi – Tỳ khưu
Phép quy y Tam Bảo trở thành vị Sadi
Nghi thức thọ Sadi
Phép quy y Tam Bảo trở thành cận sự nam, cận sự nữ
Người cận sự nam - cận sự nữ trong Phật giáo
Phép quy y Tam Bảo và các pháp
Cận sự nam - cận sự nữ cao quý hoặc thấp hèn
Nghi thức thọ phép quy y Tam Bảo và ngũ giới
Lễ sám hối Tam Bảo
Bài sám hối Tam Bảo
Nội dung bài sám hối Tam Bảo
Lời chúc lành
Xin thọ phép quy y Tam Bảo và ngũ giới
Phật giáo Nguyên thủy tại Việt Nam
Nghi thức lễ thọ phép quy y Tam Bảo và ngũ giới
Bài kệ sám hối Tam Bảo
Bài kệ sám hối với Đức Phật Bảo
Bài kệ sám hối với Đức Pháp Bảo
Bài kệ sám hối với Đức Tăng Bảo
Bài kệ cầu nguyện
Lợi ích của sự sám hối và cầu nguyện
Xin thọ trì phép quy y Tam Bảo và ngũ giới
Người hướng dẫn phép quy y Tam Bảo và ngũ giới

[4.2] Hướng dẫn phép quy y Tam Bảo và ngũ giới

Cách thứ nhất: Hoàn toàn bằng tiếng Pāḷi

Lễ bái Đức Phật
Thọ phép quy y Tam Bảo
Thọ trì ngũ giới
Bài kệ khẳng định quy y Tam Bảo
Phép quy y Tam Bảo bằng tiếng Pāḷi 3 câu cùng một lúc
Lễ bái Đức Phật
Thọ phép quy y Tam Bảo
Thọ trì ngũ giới
Bài kệ khẳng định quy y Tam Bảo

Cách thứ nhì: Tiếng Pāḷi và có ý nghĩa tiếng Việt

Sám hối Tam Bảo
Bài kệ cầu nguyện
Xin thọ trì phép quy y Tam Bảo và ngũ giới
Phép quy Tam Bảo và ngũ giới
Lễ bái Đức Phật
Thọ phép quy y Tam Bảo
Thọ trì ngũ giới
Bài kệ khẳng định quy y Tam Bảo

Cách thứ ba: Hoàn toàn bằng tiếng Việt

Sám hối Tam Bảo
Bài kệ cầu nguyện
Xin thọ trì phép quy y Tam Bảo và ngũ giới
Lễ bái Đức Phật
Thọ phép quy y Tam Bảo
Thọ trì ngũ giới
Bài kệ khẳng định quy y Tam Bảo
Bậc thiện trí quy y Tam Bảo
Hương tam quy và ngũ giới
Ân đức Thầy
Ân đức Thầy vô lượng
Tám dòng phước thiện

ĐOẠN KẾT

PHỤ LỤC
TÀI LIỆU THAM KHẢO

-ooOoo-

Namo Tassa Bhagavato Arahato Sammāsambuddhassa
Con đem hết lòng thành kính đảnh lễ Đức Thế Tôn, Đức A-ra-hán, Đức Chánh Đẳng Giác

Paṇāmagāthā

Tilokekagaruṃ Buddhaṃ
Pāyādibhayahiṃsakaṃ
Āyuno pariyosānaṃ
Gacchāmi saraṇaṃ ahaṃ.
Ādimajjhantakalyāṇam
Buddhassa dhammamosadhaṃ
Nibbānapariyosānaṃ
Gacchāmi saraṇaṃ ahaṃ.
Tassa sāvakasaṃghañca
Puññakkhettaṃ anuttaraṃ
Arahattapriyosānaṃ
Gacchāmi saraṇaṃ ahaṃ.
Buddhaṃ Dhammañca Saṃghañca
Abhivandiya sādaraṃ
Mūlabuddhasāsanan ti
Ayaṃ gantho mayā kato.

*

Kệ lễ bái Tam Bảo

Đức Thế Tôn cao thượng nhất tam giới
Dắt dẫn chúng sinh thoát khỏi họa tai
Nguyện suốt đời con xin quy y Phật,
Mong chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế.
Pháp của Ngài như linh dược nhiệm mầu
Hoàn hảo ở phần đầu giữa và cuối,
Nguyện suốt đời con xin quy y Pháp.
Mong được chứng ngộ Niết Bàn thoát khổ.
Tăng bậc Thánh Thanh Văn đệ tử Phật
Là phước điền cao thượng của chúng sinh,
Nguyện suốt đời con xin quy y Tăng
Mong được chứng đắc Thánh A-ra-hán.
Đức Phật Đức Pháp Đức Tăng cao thượng
Con hết lòng thành kính lạy Tam Bảo
Rồi góp nhặt biên soạn tập sách nhỏ
Soạn phẩm này gọi
"Nền Tảng Phật giáo".

-ooOoo-

Lời nói đầu

Nền Tảng Phật Giáo là một bộ sách có 7 quyển gồm 9 chương. Mỗi chương được khái quát như sau:

Chương thứ nhất: Ba Ngôi Cao Cả (Tiyagga)

Đức Phật (Buddha)
Đức Pháp (Dhamma)
Đức Tăng (Saṃgha)

Chương thứ nhì: Tam Bảo (Ratanattaya)

Đức Phật Bảo (Buddharatana)
Đức Pháp Bảo (Dhammaratana)
Đức Tăng Bảo (Saṃgharatana)

Chương thứ ba: Ân đức Tam Bảo (Ratanattayaguṇa)

Ân đức Phật (Buddhaguṇa)
Ân đức Pháp (Dhammaguṇa)
Ân đức Tăng (Saṃghaguṇa)

Chương thứ tư: Quy y Tam Bảo (Tisaraṇa)

Quy y Phật Bảo (Buddhasaraṇa)
Quy y Pháp Bảo (Dhammasaraṇa)
Quy y Tăng Bảo (Saṃghasaraṇa)

Chương thứ năm: Giới hạnh (Sīlācāra)

Giới hạnh của người tại gia cư sĩ (Gahaṭṭhasīla)
Giới hạnh của bậc xuất gia tu sĩ (Pabbajitasīla)

Chương thứ sáu: Nghiệp - Quả của nghiệp (Kamma-kammaphala)

Bốn loại nghiệp (Kammacatukka)
Bất thiện nghiệp (Akusalakamma)
Quả bất thiện nghiệp (Akusalavipāka)
Thiện nghiệp (Kusalakamma)
Quả thiện nghiệp (Kusalavipāka)

Chương thứ bảy: Phước thiện (Puññakusala)

10 nhân sinh phước thiện (Puññakiriyāvatthu)

Chương thứ tám: Pháp hạnh ba-la-mật (Pāramī)

10 pháp hạnh ba-la-mật (Dasapāramī)

Chương thứ chín: Pháp hành (Bhāvanā)

Pháp hành thiền định (Samathabhāvanā)
Pháp hành thiền tuệ (Vipassanābhāvanā)

Bộ Nền Tảng Phật Giáo gồm 9 chương, chia thành 7 quyển, mà mỗi quyển được đặt tên theo nội dung của từng chương:

*

Nền Tảng Phật Giáo quyển II: Quy y Tam Bảo gồm có chương thứ ba và chương thứ tư

Chương thứ ba: Ân đức Tam Bảo (Ratanattayaguṇa)

Ân đức Phật (Buddhaguṇa)
Ân đức Pháp (Dhammaguṇa)
Ân đức Tăng (Saṃghaguṇa)

Ân đức Phật có 9 Ân đức gọi là 9 Ân đức Phật.

Ân đức Pháp có 6 Ân đức gọi là 6 Ân đức Pháp.

Ân đức Tăng có 9 Ân đức gọi là 9 Ân đức Tăng.

9 Ân đức Phật, 6 Ân đức Pháp, 9 Ân đức Tăng là đối tượng dễ phát sinh đức tin trong sạch nơi Tam Bảo; mà đức tin là pháp dẫn đầu mọi thiện pháp từ dục giới thiện pháp, sắc giới thiện pháp, vô sắc giới thiện pháp cho đến Siêu tam giới thiện pháp cao thượng nhất. Cho nên, người Phật tử cần phải học hỏi, hiểu biết rõ đầy đủ 9 Ân đức Phật, 6 Ân đức Pháp, 9 Ân đức Tăng, bởi vì Ân đức Tam Bảo là đối tượng dễ phát sinh đức tin trong sạch nơi Tam Bảo.

Ân đức Tam Bảo có một tầm quan trọng trong Phật Giáo.

* Ân đức Tam Bảo là đề mục của thiền định.

Trong 40 đề mục thiền định, có 10 đề mục niệm (ānussati) mà 3 đề mục đầu là:

Đề mục niệm Ân đức Phật đó là niệm 9 Ân đức Phật.
Đề mục niệm Ân đức Pháp đó là niệm 6 Ân đức Pháp.
Đề mục niệm Ân đức Tăng đó là niệm 9 Ân đức Tăng.

Như vậy:

9 Ân đức Phật là đối tượng thiền định của đề mục niệm Ân đứcPhật.

6 Ân đức Pháp là đối tượng thiền định của đề mục niệm Ân đức Pháp.

9 Ân đức Tăng là đối tượng thiền định của đề mục niệm Ân đức Tăng.

Ba đề mục niệm Ân đức Phật này chỉ có trong Phật giáo mà thôi, không có ngoài Phật giáo. Còn lại các đề mục thiền định khác, có trong Phật giáo và ngoài Phật giáo.

* Ân đức Tam Bảo là đối tượng của phép quy y Tam Bảo.

Phép quy y Tam Bảo theo pháp tam giới (lokiyasaraṇagamana) được thành tựu là do nhờ đối tượng Ân đức Tam Bảo

Khi thọ phép quy y Phật Bảo với đại thiện tâm hợp với trí tuệ có đối tượng là 9 Ân đức Phật.

Khi thọ phép quy y Pháp Bảo với đại thiện tâm hợp với trí tuệ có đối tượng là 6 Ân đức Pháp.

Khi thọ phép quy y Tăng Bảo với đại thiện tâm hợp với trí tuệ có đối tượng là 9 Ân đức Tăng.

Như vậy, đối với hạng phàm nhân, Ân đức Tam Bảo thật là tối quan trọng, bởi vì Ân đức Tam Bảo là đối tượng chính hỗ trợ cho phép quy y Tam Bảo theo pháp tam giới được thành tựu.

Nếu là người phàm nhân tại gia cư sĩ, thì người ấy trở thành cận sự nam (upāsaka) hoặc cận sự nữ (upāsikā) trong Phật giáo.

Nếu là người xuất gia tu sĩ, thì người ấy trở thành vị Sadi (Sāmaṇera) trong Phật giáo.

Do đó, chương III Ân đức Tam Bảo là đối tượng của chương IV Quy y Tam Bảo.

*

Chương thứ tư: Quy y Tam Bảo (Tisaraṇa).

Quy y Phật Bảo (Buddhasaraṇa).
Quy y Pháp Bảo (Dhammasaraṇa).
Quy y Tăng Bảo (Saṃghasaraṇa).

Quy y Phật Bảo, quy y Pháp Bảo, quy y Tăng Bảo là một phép gọi là phép quy y Tam Bảo, để trở thành người cận sự nam hoặc cận sự nữ trong giáo pháp của Đức Phật Gotama.

Phép quy y Tam Bảo có 2 phép:

Phép quy y Tam Bảo theo pháp Siêu tam giới (Lokuttarasaraṇagamana).
Phép quy y Tam Bảo theo pháp tam giới (Lokiyasaraṇagamana).

* Phép quy y Tam Bảo theo pháp Siêu tam giới như thế nào ?

Một người đến hầu Đức Phật, lắng nghe Ngài thuyết pháp, rồi tiến hành pháp hành thiền tuệ dẫn đến chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc Thánh Đạo. Ngay khi sát-na Thánh Đạo Tâm phát sanh có đối tượng Niết Bàn, diệt đoạn tuyệt được phiền não, đồng thời bậc Thánh Nhân ấy đã thành tựu phép quy y Tam Bảo pháp Siêu tam giới (Lokuttarasaraṇagamana).

Tuy đã thành tựu phép quy y Tam Bảo theo pháp Siêu tam giới ở trong tâm rồi, nhưng bậc Thánh Nhân tại gia ấy vẫn còn phải thọ phép quy y Tam Bảo theo pháp tam giới, trước sự hiện diện của Đức Phật, hoặc bậc Thanh Văn đệ tử của Đức Phật; kính xin Ngài (quý Ngài) chứng minh và công nhận mình là người cận sự nam (hoặc người cận sự nữ) đã quy y Tam Bảo kể từ đó cho đến trọn đời trọn kiếp. Khi ấy, bậc Thánh Nhân tại gia ấy mới được chính thức gọi là người cận sự nam (upāsaka), hoặc người cận sự nữ (upāsikā) trong giáo pháp của Đức Phật Gotama.

* Phép quy y Tam Bảo theo pháp tam giới như thế nào ?

Những hạng phàm nhân tại gia là bậc thiện trí có đức tin trong sạch nơi Tam Bảo, có trí tuệ sáng suốt học hỏi hiểu rõ 9 Ân đức Phật, 6 Ân đức Pháp, 9 Ân đức Tăng; có nhận thức đúng đắn rằng: Đức Phật cao thượng, Đức Pháp cao thượng, Đức Tăng cao thượng; có ý nguyện muốn trở thành người cận sự nam hoặc cận sự nữ trong giáo pháp của Đức Phật Gotama. Người ấy đến hầu Đức Phật, hoặc bậc Thanh Văn đệ tử của Đức Phật, thành kính xin làm lễ thọ phép quy y Tam Bảo.

Khi thọ phép quy y Phật Bảo với đại thiện tâm hợp với trí tuệ có đối tượng 9 Ân đức Phật.

Khi thọ phép quy y Pháp Bảo với đại thiện tâm hợp với trí tuệ có đối tượng 6 Ân đức Pháp.

Khi thọ phép quy y Tăng Bảo với đại thiện tâm hợp với trí tuệ có đối tượng 9 Ân đức Tăng.

Hạng phàm nhân ấy thọ phép quy y Tam Bảo với đại thiện tâm hợp trí tuệ có đối tượng Ân đức Tam Bảo, đồng thời diệt bằng cách đè nén, chế ngự được phiền não. Ngay khi ấy, hạng phàm nhân ấy được thành tựu phép quy y Tam Bảo theo pháp tam giới (lokiyasaraṇagamana), trở thành người cận sự nam (upāsaka) hoặc người cận sự nữ (upāsikā) trong giáo pháp của Đức Phật Gotama.

Như vậy, phép quy y Tam Bảo này không những đối với các hàng phàm nhân tại gia mà còn đối với các bậc Thánh Nhân tại gia nữa. Các bậc Thánh Nhân tại gia được thành tựu cả phép quy y Tam Bảo theo pháp Siêu tam giới lẫn phép quy y Tam Bảo theo pháp tam giới. Còn các hạng phàm nhân tại gia được thành tựu phép quy y Tam Bảo theo pháp tam giới, mà chưa thành tựu được phép quy y Tam Bảo theo pháp Siêu tam giới. Khi nào hạng phàm nhân tiến hành thiền tuệ, có khả năng chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc Thánh Đạo - Thánh Quả và Niết Bàn trở thành bậc Thánh Nhân, khi ấy, vị Thánh Nhân ấy mới thành tựu được phép quy y Tam Bảo theo pháp Siêu tam giới.

Đối với các hạng phàm nhân tại gia muốn thành tựu phép quy y Tam Bảo theo pháp tam giới, để trở thành người cận sự nam hoặc cận sự nữ trong giáo pháp của Đức Phật Gotama. Trước tiên, người ấy cần phải có đức tin nơi Tam Bảo, có trí tuệ sáng suốt, học hỏi, hiểu rõ 9 Ân đức Phật, 6 Ân đức Pháp, 9 Ân đức Tăng; bởi vì, những Ân đức Tam Bảo này là đối tượng chính của phép quy y Tam Bảo với đại thiện tâm hợp với trí tuệ, khi tâm này làm phận sự thọ phép quy y Tam Bảo, trước sự hiện diện của Đức Phật, hoặc bậc Thánh Thanh Văn đệ tử của Đức Phật. Kính xin Ngài (hoặc quý Ngài) chứng minh và công nhận người ấy là người cận sự nam (hoặc cận sự nữ) đã quy y Tam Bảo, kể từ lúc đó cho đến trọn đời, trọn kiếp.

Trong đời có số người quan niệm rằng: "Trong gia đình có thờ tượng Đức Phật, ta là người có đức tin nơi Tam Bảo, hằng ngày thường lễ bái cúng dường Tam Bảo; đến chùa làm mọi phước thiện như bố thí, cúng dường đến chư Tỳ khưu Tăng v.v… Như vậy, đương nhiên ta là người Phật tử, là người cận sự nam hoặc cận sự nữ trong Phật giáo rồi!". Nhưng thực ra, dù những người ấy đã tạo những phước thiện như vậy, vẫn chưa đủ tiêu chuẩn để chính thức trở thành người cận sự nam (upāsaka) hoặc người cận sự nữ (upāsikā) trong giáo pháp của Đức Phật Gotama. Những người ấy chỉ có thể gọi là người có thiện tâm tín ngưỡng Đạo Phật, hoặc là người có đức tin nơi Tam Bảo mà thôi.

Thật ra, để chính thức trở thành một người cận sự nam hoặc một người cận sự nữ trong giáo pháp của Đức Phật Gotama, những hạng phàm nhân tại gia ấy cần phải được thành tựu phép quy y Tam Bảo theo pháp tam giới, nhờ có sự hiện diện của bậc Thanh Văn đệ tử của Đức Phật, kính xin Ngài chứng minh và công nhận người ấy là người cận sự nam hoặc cận sự nữ đã quy y Tam Bảo cho đến trọn đời, trọn kiếp. Khi ấy, người ấy mới chính thức được trở thành cận sự nam hoặc cận sự nữ là một trong tứ chúng đệ tử của Đức Phật Gotama.

Đức Phật Gotama có tứ chúng đệ tử là Tỳ khưu (Bhikkhu), Tỳ khưu ni (Bhikkhuni), cận sự nam (upāsaka), cận sự nữ (upāsikā). Khi một người đã trở thành cận sự nam hoặc cận sự nữ, là có được một địa vị cao quý trong Đạo Phật. Cho nên, mỗi người cận sự nam hoặc cận sự nữ đã quy y Tam Bảo rồi, trở thành người Phật tử, có quyền thừa hưởng Pháp Bảo cao thượng của Đức Phật, và nên có bổn phận hộ trì Tam Bảo, giữ gìn duy trì Pháp Bảo cao thượng cho được trường tồn lâu dài trên thế gian này, để đem lại sự lợi ích cao thượng, sự tiến hoá cao thượng từ dục giới thiện pháp, sắc giới thiện pháp, vô sắc giới thiện pháp cho đến Siêu tam giới thiện pháp; sự an lạc cao thượng đó là Niết Bàn an lạc tuyệt đối.

*

Quyển "Quy y Tam Bảo" này, bần sư đã dày công sưu tầm, gom nhặt mọi phép quy y Tam Bảo; bắt đầu từ phép quy y Nhị Bảo đầu tiên của hai anh em lái buôn Tapussa và Bhallika, tại cội cây Rājayatana gần Đại cội Bồ đề, sau khi Đức Phật an hưởng pháp vị giải thoát Niết Bàn suốt 7 tuần lễ gồm 49 ngày, kể từ khi Ngài chứng đắc thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác. Tiếp theo sau đó là phép quy y Tam Bảo đầu tiên của thân phụ và thân mẫu của Ngài Đại đức Yasa, và các phép quy y Tam Bảo khác nhau từ thời xưa cho đến phép quy y Tam Bảo phổ thông thời nay, hiện đang lưu truyền trong các nước Phật Giáo Theravāda như: Nước Srilankā, nước Myanmar (Miến Điện), nước Thái Lan, nước Campuchia, nước Lào, Phật giáo Nguyên thuỷ tại Việt Nam v.v…

Trong quyển sách "Quy y Tam Bảo" này, bần sư đã cố gắng hết sức mình để sưu tầm, góp nhặt những tài liệu có liên quan đến Tam Bảo, từ Tam Tạng Pāḷi và các Chú giải Pāḷi chỉ được bấy nhiêu thôi! Tuy bần sư cố gắng hết mình giảng giải để giúp cho độc giả tìm hiểu rõ về phép quy y Tam Bảo, song vì khả năng có hạn, nên chắc chắn không tránh khỏi những điều sơ sót, thậm chí còn có chỗ sai ngoài khả năng hiểu biết của bần sư.

Để lần sau tái bản được hoàn thiện hơn, kính mong chư bậc thiện trí từ bi chỉ giáo, góp ý chân tình. Kính xin quý vị xem soạn phẩm này như là của chung, mà mỗi người trong chúng ta, ai cũng có bổn phận đóng góp xây dựng, để cho soạn phẩm này được hoàn hảo, hầu mong đem lại sự lợi ích chung, sự tiến hóa, sự an lạc cho phần đông chúng ta. Bần sư kính cẩn đón nhận những lời đóng góp phê bình xây dựng ấy của chư bậc thiện trí, và kính xin quý Ngài ghi nhận nơi đây lòng chân thành biết ơn sâu sắc của bần sư.

*

Quyển sách "Quy y Tam Bảo" này được hoàn thành do nhờ có nhiều người giúp sức như: Đệ tử Sīlācāra (Giới Hạnh), cô Dhammanandā đã tận tình đánh máy vi tính, dàn trang, làm thành quyển sách; các thí chủ trong nước và ngoài nước có đức tin trong sạch lo ấn hành là: Pháp đệ Bửu Đức cùng nhóm Phật tử chùa Hương Đạo (Hoa Kỳ), gia đình anh Đinh Vạn Xuân cùng nhóm Phật tử ở Úc, các nhóm Phật tử ở Mỹ, Pháp, Thụy Sĩ, Canada, Úc… gia đình anh Hoàng Quang Chung… và đã được Nhà Xuất Bản Tôn Giáo cho phép ấn hành. Bần sư vô cùng hoan hỷ và biết ơn tất cả quý vị.

Nhân dịp này, con là Dhammarakkhita Bhikkhu (Tỳ khưu Hộ Pháp) thành kính dâng phần pháp thí thanh cao này đến Ngài Cố Vaṃsarakkhitamahāthera (Cố Đại Trưởng Lão Hộ Tông) là sư phụ của con, đồng thời đến Ngài Cố Đại Trưởng Lão Thiện Luật, Ngài Cố Đại Trưởng Lão Bửu Chơn, Ngài Cố Đại Trưởng Lão Giới Nghiêm, Ngài Cố Trưởng Lão Hộ Giác (chùa Từ Quang) cùng chư Đại Trưởng Lão, Đại đức khác đã dày công đem Phật giáo Nguyên thuỷ (Theravāda) về truyền bá trên quê hương Việt Nam thân yêu, và xin kính dâng đến chư Đại Trưởng Lão ở nước Thái Lan, nước Myanmar (Miến Điện), đã có công dạy dỗ con về pháp học và pháp hành.

Con kính mong quý Ngài hoan hỷ.

-ooOoo-

Idaṃ no ñātinaṃ hotu, sukhitā hontu ñātayo.

Phước thiện pháp thí thanh cao này, xin hồi hướng đến tất cả thân quyến của chúng con, từ kiếp hiện tại cho đến vô lượng kiếp trong quá khứ, cầu mong quý vị hoan hỷ thọ nhận phần phước thiện này để thóat khỏi cảnh khổ, được an lạc lâu dài.

Imaṃ puññābhāgaṃ mātāpitu-ācariya-ñāti-mittānañceva sesasabba-sattānañca dema, sabbepi te puññapattiṃ laddhāna sukhitā hontu.

Chúng con thành tâm hồi hướng, chia phước đến ông bà, cha mẹ, thầy tổ, thân quyến, bạn hữu cùng tất cả chúng sinh từ cõi địa ngục, atula, ngạ quỷ, súc sinh, nhân loại, chư thiên trong các cõi trời dục giới, chư phạm thiên trong các cõi trời sắc giới,... tất cả quý vị hoan hỷ thọ nhận phần phước thiện pháp thí thanh cao này, cầu mong quý vị thoát mọi sự khổ, được an lạc lâu dài.

Idaṃ me dhammadānaṃ āsavakkhayāvahaṃ hotu.

Phước thiện pháp thí thanh cao này của mỗi người chúng con, xin làm duyên lành dẫn dắt mỗi người chúng con đến chứng đắc Arahán Thánh Đạo - Arahán Thánh Quả và Niết Bàn, diệt đoạn tuyệt mọi phiền não trầm luân, giải thoát khổ tử sinh luân hồi trong ba giới bốn loài.

Nếu mỗi người trong chúng con chưa diệt đoạn tuyệt được mọi phiền não trầm luân, chưa giải thoát khổ sinh, vẫn còn tiếp tục tử sinh luân hồi, thì do năng lực phước thiện pháp thí thanh cao này ngăn cản mọi ác nghiệp không có cơ hội cho quả tái sinh trong 4 cõi ác giới: Địa ngục, atula, ngạ quỷ, súc sinh; và cũng do năng lực phước thiện này chỉ hỗ trợ thiện nghiệp cho quả tái sinh trong cõi thiện giới: cõi người, các cõi trời dục giới… mà thôi. Được sinh kiếp nào, mỗi người trong chúng con cũng là người có chánh kiến, có đức tin trong sạch nơi Tam Bảo, tin nghiệp và quả của nghiệp, có duyên lành được gần gũi thân cận với bậc thiện trí, lắng nghe chánh pháp của bậc thiện trí, có đức tin trong sạch nơi bậc thiện trí, cố gắng tinh tấn hành theo lời giáo huấn của bậc thiện trí, không ngừng tạo mọi pháp hạnh ba-la-mật cho sớm được đầy đủ trọn vẹn, để mong sớm chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc 4 Thánh Đạo - 4 Thánh Quả và Niết Bàn, mong diệt đoạn tuyệt mọi phiền não trầm luân, trở thành bậc Thánh Arahán.

Trong vòng tử sinh luân hồi, mỗi khi chúng con được nghe tin lành Đức Phật, Đức Pháp, Đức Tăng ngự nơi nào, dù gần dù xa, chúng con liền phát sinh tâm hỷ lạc, có đức tin trong sạch nơi Đức Phật, Đức Pháp, Đức Tăng; quyết tâm tìm đến nơi ấy, để hầu đảnh lễ Đức Thế Tôn, hoặc chư Thánh Thanh Văn đệ tử của Ngài, lắng nghe chánh pháp, cố gắng tinh tấn hành theo chánh pháp của Ngài, để mong chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc 4 Thánh Đạo - 4 Thánh Quả và Niết Bàn, diệt đoạn tuyệt mọi phiền não, mọi tham ái, mọi ác pháp, trở thành bậc Thánh Arahán sẽ tịch diệt Niết Bàn, chấm dứt tử sinh luân hồi trong ba giới bốn loài.

Nay chúng con hết lòng thành kính thọ phép quy y Tam Bảo: Quy y Đức Phật Bảo, quy y Đức Pháp Bảo, quy y Đức Tăng Bảo, và thành tâm hộ trì Tam Bảo cho đến trọn đời, trọn kiếp. Do nhờ năng lực phước thiện thanh cao này, cầu mong cho mỗi người chúng con luôn luôn có được duyên lành sâu sắc trong Phật giáo.

Do nhờ năng lực phước thiện pháp thí thanh cao này hỗ trợ, nhắc nhở cho mỗi người chúng con, khi thành tựu quả báu ở cõi người (manussasampatti) như thế nào, cũng không đắm say trong cõi người; hoặc khi thành tựu quả báu ở cõi trời (devasampatti) hưởng được an lạc như thế nào, cũng không đắm say trong cõi trời. Bởi vì mục đích cứu cánh cao cả của mỗi chúng con là cầu mong sớm thành tựu quả báu chứng ngộ Niết Bàn (Nibbānasampatti), giải thoát khổ tử sinh luân hồi trong ba giới bốn loài.

Icchitaṃ patthitaṃ amhaṃ
Khippameva samijjhatu.

Điều mong ước, ý nguyện của chúng con
Cầu mong sớm được thành tựu như ý.

Tỳ khưu Hộ Pháp
Thiền viện Viên Không
Xã Tóc Tiên, Huyện Tân Thành
Bà Rịa-Vũng Tàu
Mùa an cư nhập hạ Pl: 2548/2004

* Chú ý: Cách đọc chữ Pāḷi trong phần phụ lục

-ooOoo-

Ðầu trang | Mục lục | 3.1 | 3.2 | 4.1 | 4.2

 

Chân thành cám ơn Tỳ khưu Hộ Pháp đã gửi tặng bản vi tính (Bình Anson, 10-2005)

[Trở về trang Thư Mục]
last updated:
23-10-2005